Ôn tập Văn nghị luận – Ngữ Văn lớp 9 – Loga.vn

Qua bài viết này chúng tôi hy vọng sẽ giúp các bạn hiểu rõ về ôn tập văn nghị luận 9 hay nhất
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu 0977995922
VĂN NGHỊ LUẬN
( Những kiến thức cơ bản cần nắm vững )
A.Các loại nghị luận và các dạng bài nghị luận :
Có hai loại nghị luận : nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Ở từng loại, lại có các dạng bài khác nhau.
I, Nghị luận xã hội :
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí :
– Nội dung cần có :
+ Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.
+ Phân tích các mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận.
+ Nêu dẫn chứng chứng minh
+ Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng đạo lí.
– Cách viết cần đạt :
+ Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ trong từng phần và toàn bài.
+ Diễn đạt chính xác, trong sáng, mạch lạc.
+ Có thể sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt phù hợp và có chừng mức.
2) Nghị luận về một hiện tượng đời sống :
– Nội dung cần có :
+ Nêu rõ hiện tượng
+ Phân tích các mặt đúng-sai, lợi-hại,..
+ Trình bày nguyên nhân, giải pháp.
+ Bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội đó.
– Cách diễn đạt :
+ Như bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí về bố cục, lập luận, cách diễn đạt.
+ Phần nêu nhận xét của mình về hiện tượng đó cần nêu ngắn gọn, rõ ràng để làm nổi bật vấn đề.
*CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI TRONG MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC
Lưu ý:
– Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học là kiểu bài nghị luận xã hội , không phải là kiểu bài nghị luận văn học. Cần tránh tình trạng làm lạc đề sang nghị luận văn học.
– Vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học có thể là một tư tưởng, đạo lí hoặc một hiện tượng đời sống (thường là một tư tưởng, đạo lí)
*Cách làm:
Xem thêm: Bày tỏ suy nghĩ của em về câu nói của Dế Choắt nói với Dế Mèn
Dạng nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học:
1.Loại: Thuộc loại bài nghị luận xã hội.
2.Đề tài: Một vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu sắc nào đó đặt ra trong tác phẩm văn học. Vấn đề xã hội có ý nghĩa có thể lấy từ hai nguồn: tác phẩm văn học đã học trong chương trình hoặc một câu chuyện nhỏ, một văn bản văn học ngắn gọn mà HS chưa được học.
3.Về cấu trúc triển khai tổng quát:
a/Phần một: Phân tích văn bản (hoặc nêu vắn tắt nội dung câu chuyện) để rút ra ý nghĩa của vấn đề (hoặc câu chuyện).
b/Phần hai (trọng tâm): Nghị luận (phát biểu) về ý nghĩa của vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học (câu chuyện).
* Dàn ý chung:
a. Mở bài:
– Dẫn dắt vào đề (…)
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề xã hội mà tác phẩm nêu ở đề bài đặt ra (…)
– Trích dẫn câu thơ, câu văn hoặc đoạn văn, đoạn thơ nếu đề bài có nêu ra (…)
b. Thân bài:
* Phần phụ: Giải thích và rút ra vấn đề xã hội đã được đặt ra từ tác phẩm (…)
Lưu ý: Phần này chỉ giải thích, phân tích một cách khái quát và cuối cùng phải chốt lại thành một luận đề ngắn gọn.
* Phần trọng tâm: Thực hiện trình tự các thao tác nghị luận tương tự như ở bài văn nghị luận về tư tưởng đạo lí hoặc nghị luận về hiện tượng đời sống như đã nêu ở trên (…)
Lưu ý: Khi từ “phần phụ” chuyển sang “phần trọng tâm” cần phải có những câu văn “chuyển ý” thật ấn tượng và phù hợp để bài làm được logic, mạch lạc, chặt chẽ.
c. Kết bài:
– Khẳng định chung về ý nghĩa xã hội mà tác phẩm văn học đã nêu ra (…)
– Lời nhắn gửi đến tất cả mọi người (…).
* Ví dụ đề bài:
Đê 1: Từ tác phẩm “Số phận con người” của nhà văn Sô-lô-khốp, hãy bày tỏ suy nghĩ của mình về nghị lực của con người và tuổi trẻ của con người.
Đê 1: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Từ câu tục ngữ này, hãy trình bày suy nghĩ của mình về vai trò của người thầy trong xã hội hiện nay.
Đề 2: Bàn về Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga có ý kiến cho rằng: “Hình ảnh Lục Vân Tiên quả là một người anh hùng, là tấm gương nghĩa hiệp tuyệt vời nhưng chỉ là quá khứ, còn hiện nay không có những con người như vậy nữa!”. Từ nhận thức về xã hội hiện nay, em hãy viết bài trao đổi với các bạn học sinh cùng lứa tuổi về ý kiến trên.
II. Nghị luận văn học
1. Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
a. Các dạng bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học và cách lập ý
– Nghị luận về văn học sử
– Nghị luận về lí luận văn học
– Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học
b) Cách lập dàn ý
• Mở bài:
Xem thêm: Soạn bài Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự – VietJack.com
– Dẫn dắt vấn đề.
– Nêu xuất xứ và trích dẫn ý kiến.
– Giới hạn phạm vi tư liệu.
• Thân bài:
– Giải thích, làm rõ vấn đề:
– Bàn bạc, khẳng định vấn đề. Có thể lập luận theo cách sau:
+ Khẳng định ý kiến đó đúng hay sai? Mức độ đúng sai như thế nào?
+ Lí giải tại sao lại nhận xét như thế? Căn cứ vào đâu để có thể khẳng định được như vậy?
+ Điều đó được thể hiện cụ thể như thế nào trong tác phẩm, trong văn học và trong cuộc sống?
– Mở rộng, nâng cao, đánh giá ý nghĩa của vấn đề đó với cuộc sống, với văn học.
• Kết bài:
+ Khẳng định lại tính chất đúng đắn của vấn đề.
+ Rút ra những điều đáng ghi nhớ và tâm niệm cho bản thân từ vấn đề.
2. Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
a. Các dạng bài nghị luận về bài thơ, đoạn thơ và cách lập ý
VD. Phân tích bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh.
Phân tích khổ thơ đầu tiên trong bài “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
b. Cách lập dàn ý
Đảm bảo bố cục: 3 phần
– Mở bài: Giới thiệu khái quát đoạn thơ, bài thơ và vấn đề cần nghị luận.
– Thân bài: Bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
– Kết bài: Đánh giá chung về đoạn thơ, bài thơ.
3. Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi
a. Các dạng bài nghị luận về đoạn trích,tác phẩm văn xuôi và cách lập dàn ý
– Nghị luận về giá trị nội dung tác phẩm, đoạn trích
Ví dụ: Giá trị nhân đạo của truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ)
– Nghị luận về giá trị nghệ thuật
Ví dụ: . Phân tích tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm “ Chiếc lược Ngà” để làm rõ vai trò của việc xây dựng tình huống trong truyện ngắn.
– Nghị luận về một nhân vật
VD. Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” của nhà văn Kim Lân.
– Nghị luận về một giá trị nội dung, nghệ thuật, một phương diện hay một khía cạnh của nhiều tác phẩm, đoạn trích khác nhau.
Xem thêm: Soạn bài Nói với con | Soạn văn 9 hay nhất – VietJack.com
VD. So sánh vẻ đẹp hình tượng người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” và “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” để thấy nét riêng trong phong cách nghệ thuật của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.
b. Cách lập dàn ý
Đảm bảo bố cục 3 phần:
– Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận.
– Thân bài: Mỗi ý kiến nhận xét về đặc điểm nội dung và nghệ thuật của đoạn trích hay tác phẩm triển khai thành một luận điểm. Trong từng luận điểm sử dụng các luận cứ (lí lẽ và dẫn chứng) làm sáng tỏ.
– Kết bài: Đánh giá về ý nghĩa, vị trí, vai trò của tác phẩm trong sự nghiệp tác giả, trong giai đoạn văn học, đối với thời đại; vị trí, ý nghĩa của đoạn trich trong toàn tác phẩm, hoặc của vấn đề nghị luận.
B. BÀI TẬP VẬN DỤNG
I. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
1.Em có suy nghĩ gì về ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thế hệ trẻ Việt Nam ?
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một tư tưởng luôn được đề cao trong lịch sử xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sôi động hiện nay, đây lại càng là vấn đề quan trọng, ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thế hệ trẻ, một lực lượng đông đảo và hùng hậu đang là điều được quan tâm đặc biệt của xã hội.
Hơn bất kì ai, thanh niên, thiếu niên là những đối tượng bén nhạy nhất với các yếu tố văn hoá. Nhìn vào thế hệ trẻ hôm nay, đặc biệt là thành viên của thế hệ 8X, 9X người ta thấy biểu hiện một ý thức đối với bản sắc văn hoá dân tộc. Thế hệ trẻ bây giờ nhanh nhạy hơn, năng động hơn, hiện đại hơn, đó là dấu hiệu đáng mừng, bởi nó chứng tỏ tuổi trẻ Việt Nam luôn nắm bắt và theo kịp những yêu cầu của thời đại. Thế nhưng, hãy quan sát kĩ một chút, chúng ta sẽ thấy trong cái năng động, hiện đại đó còn có rất nhiều điều đáng suy ngẫm.
Đầu tiên là từ những cái dễ thấy nhất như đi đứng, nói năng, ăn mặc, phục trang. Xu hướng chung của giới trẻ là bắt chước, học theo phim nước ngoài, theo các diễn viên, các ca sĩ nổi tiếng. Những mái tóc nhuộm nhiều màu, những bộ quần áo cộc cỡn, lạ mắt, những cử chỉ đầy kiểu cách, những câu nói lẫn lộn Tiếng Anh, Tiếng Việt… đó là biểu hiện của một thứ văn hoá đua đòi phù phiếm. Sự chân phương, giản dị mà lịch lãm, trang nhã vốn là biểu hiện truyền thống của người Việt Nam đã không được nhiều bạn trẻ quan tâm, để ý. Chạy theo những hình thức như vậy cũng là biểu hiện của việc quay lưng lại với bản sắc văn hoá dân tộc. ở một chiều sâu khó thấy hơn là quan niệm, cách nghĩ, lối sống. Rất nhiều thanh, thiếu niên Việt Nam không nắm được lịch sử dân tộc dù đã được học rất nhiều, trong khi đó lại thuộc lòng vanh vách tiểu sử, đời tư của các diễn viên, ca sĩ ; không biết, không hiểu và không quan tâm tới các lễ hội dân gian vốn là sinh hoạt văn hoá truyền thống lâu đời của nhân dân trong khi rất sành về “chát”, về ca nhạc, cà phê. Ngày lễ, tết họ đến nhà thờ hoặc vào chùa hái lộc nhưng không biết bàn thờ gia tiên đã có những gì. Họ coi sự cần cù, chăm chỉ là biểu hiện của sự cũ kĩ, lạc hậu… Tất cả đều là biểu hiện của một sự thiếu ý thức trong giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Tiếp xúc với nhiều công dân trẻ tuổi, người ta thấy dấu ấn của bản sắc văn hoá Việt Nam là rất mờ nhạt, mà đậm nét lại là một thứ văn hoá ngoại lai hỗn tạp. Đó là một thực trạng đang khá phổ biến hiện nay.
Có hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên : nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Về phía khách quan, đó chính là tác động của môi trường sống, của bối cảnh thời đại. Thời đại đất nước mở cửa giao lưu, hội nhập với thế giới cho nên văn hoá bên ngoài theo đó mà tràn vào Việt Nam. Đâu đâu cũng có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh của một thứ văn hoá mới, hiện đại và đầy quyến rũ. Trong một không gian chung như vậy, những nét văn hoá cổ truyền của người Việt dường như đang có nguy cơ trở nên yếu thế.
Về chủ quan, thế hệ trẻ ngày nay ít quan tâm để ý đến vấn đề bản sắc văn hoá. Họ thiếu ý thức giữ gìn, bởi thực chất là họ không hiểu được bản sắc văn hoá dân tộc là gì và cũng không cần hiểu.
Những công dân trẻ Việt Nam sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam nhưng lại không giống một người dân nước Việt. Họ có bề rộng nhưng thiếu chiều sâu, chiều sâu của một tâm hồn Việt, một tính cách Việt. Văn hoá dân tộc là cội rễ bền vững của tâm hồn mỗi con người, không lớn lên và bám chắc vào cội rễ đó, mỗi con người chỉ còn là một cá nhân lạc loài giữa cộng đồng của mình. Đó là hậu quả đầu tiên dành cho chính mỗi người, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Và hãy tưởng tượng, nếu thế hệ hôm nay quên đi bản sắc văn hoá dân tộc mình thì trong một tương lai không xa chúng ta sẽ còn lại gì ? và những thế hệ tiếp nối sau này sẽ ra sao ? Bản sắc văn hoá là linh hồn, là gương mặt riêng của mỗi dân tộc, là yếu tố quan trọng để khẳng định vị thế của dân tộc đó ở giữa cộng đồng thế giới. Đánh mất bản sắc riêng trong nền văn hoá của mình là đánh mất quá khứ, mất lịch sử, mất cội nguồn và chúng ta chỉ còn là một con số không ở giữa nhân loại. Thế hệ trẻ là những người nắm giữ tương lai của đất nước, bởi vậy, nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một điều vô cùng cần thiết.
Vậy thì cần làm gì để thực hiện được điều đó. Trước hết, là phải từ sự tự giác ý thức của mỗi người. Mỗi thanh niên, thiếu niên phải thực sự thấy được giá trị của văn hoá dân tộc – những giá trị được chắt lọc và đúc kết từ ngàn đời, được gìn giữ, kế thừa qua bao thăng trầm của lịch sử, đã và đang ăn sâu trong máu thịt của mỗi người dân để dù có đi đâu, sống ở nơi nào, con người đó vẫn luôn là người dân nước Việt.
Gia đình, cộng đồng xã hội cũng phải chung sức, chung lòng để tô đậm thêm nữa những giá trị văn hoá đó trong sự trà trộn phức tạp của những luồng văn hoá khác. Mặt khác, cũng cần phải thấy rằng, giữ gìn ở đây không có nghĩa là khư khư ôm lấy cái đã có. Cần phải kế thừa phát huy nhưng đồng thời cũng phải phát triển nó lên bằng cách kết hợp có lựa chọn với những yếu tố văn hoá mới tích cực. Từ đó hình thành một nền văn hoá Việt Nam vừa truyền thống, vừa hiện đại, đa dạng, vừa thống nhất, đảm bảo được yêu cầu “hoà nhập nhưng không hoà tan” trong một thời đại mới. Thực hiện điều này là trọng trách, là nghĩa vụ của mỗi công dân, của mỗi thanh, thiếu niên hôm nay.
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là đóng góp có ý nghĩa đầu tiên cho đất nước mà mỗi thanh thiếu niên có thể làm và hãy làm bắt đầu từ việc điều chỉnh, uốn nắn chính những hành vi, ý thức của bản thân mình.
2.Có rất nhiều bạn nhỏ bằng tuổi em nhưng phải rời nhà ra kiếm sống ở các thành phố. Suy nghĩ của em về vấn đề này ?
Trẻ em là tương lai của thế giới. Trẻ em sinh ra phải được chăm sóc, nuôi dưỡng, được yêu thương, bảo vệ và học tập đầy đủ. Đó là quyền mà bất kì đứa trẻ nào cũng được hưởng. Thế nhưng trong thực tế thì không phải như vậy. Có rất nhiều bạn nhỏ khi lớn lên đã phải sớm rời bỏ mái nhà để tìm đến kiếm sống ở những thành phố, những khu đô thị xa lạ. Hiện tượng này không còn là cá biệt mà đã trở thành một tình trạng phổ biến, một vấn đề của cả xã hội.
Đặt chân đến bất kì thành phố, khu đô thị dù lớn, dù bé nào người ta cũng có thể dễ dàng bắt gặp những đứa trẻ lang thang đến từ nhiều vùng quê khác nhau. Đó là những cô bé, cậu bé tuổi còn rất nhỏ, tâm hồn còn rất ngây thơ, non nớt. Các em đáng lẽ phải đang ở nhà và cắp sách đến trường như bao bạn nhỏ cùng trang lứa khác, nhưng lại phải một thân một mình bươn chải kiếm sống. Các em tìm đến thành phố với mục đích lớn nhất là kiếm tiền để nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình. Mỗi em tự tìm cho mình một công việc : em đánh giày, em bán báo, em đi làm người giúp việc trong các gia đình, các quán ăn… Bất cứ việc gì làm được và có người cần các em đều có thể làm. Việc ít, người nhiều – nhiều khi phải tranh cướp, giành giật mới kiếm được miếng ăn ít ỏi.
Một mình giữa nơi đông đúc, không có người thân thích bên cạnh, các em phải tự lo cho mình mọi chuyện, từ ăn uống đến chỗ ngủ qua đêm rồi khi ốm đau bệnh tật. Cuộc sống của các em rất bếp bênh và khổ cực, có biết bao nhiêu cay đắng, rủi ro rình rập theo mỗi bước chân của những đứa trẻ này. Nhìn khuôn mặt của các em, người ta thấy hiện rõ sự mệt mỏi, cái già dặn trước tuổi bên cạnh chút hồn nhiên, non nớt của tuổi thơ còn sót lại. Đấy là điều khiến chúng ta, bạn và tôi, những đứa trẻ may mắn đang được che chở dưới mái ấm gia đình và ngày ngày cắp sách đến trường, không thể không suy nghĩ.
Đứa trẻ nào cũng muốn được yêu thương, được chăm sóc, được sống giữa vòng tay gia đình và bạn bè. Thế nhưng, tại sao vẫn có nhiều bạn nhỏ phải tự bước vào đời kiếm sống sớm đến vậy ? Nguyên nhân đầu tiên của tình trạng này vẫn là do cái nghèo. Nơi các bạn nhỏ này bước chân ra đi đều là những vùng nông thôn xa xôi. Gia đình có mỗi một nghề làm ruộng, đất thì ít, anh chị em thì đông, đến ngày mùa đầu tắt mặt tối mà vẫn không đủ ăn. Không có tiền đi học, các bạn nhỏ ở nhà rồi rời nhà đi kiếm sống để bớt gánh nặng cho gia đình. Cũng có khi là do cảnh cha mẹ không hoà hợp, suốt ngày cãi cọ, không để ý đến con cái, các em cũng tự bỏ nhà lên phố… rồi cha mẹ li thân, li dị, hay do mất cha, mất mẹ khiến các em không còn chỗ dựa. Nói chung, có trăm nghìn lí do đẩy các bạn nhỏ vào cảnh tha phương. Đằng sau tất cả những lí do đó vẫn phải khẳng định một điều đó là sự thiếu quan tâm của người lớn. Nếu các bậc làm cha, làm mẹ biết nghĩ cho các em nhiều hơn thì chắc chắn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng sẽ không để cho con em mình vào đời bươn chải vật lộn với miếng ăn khi còn quá nhỏ dại như vậy. Sống trong cảnh thiếu thốn, cảnh không yên ổn của gia đình đã là một thiệt thòi, giờ phải rời mái nhà đang che chở cho các em, một thân một mình mưa nắng chốn xa lạ, đó là lời cảnh báo cho cả xã hội về vấn đề đảm bảo những quyền lợi chính đáng cho tất cả mọi đứa trẻ.
Tình trạng trẻ em từ nông thôn ra thành phố kiếm sống đã và đang để lại rất nhiều những hậu quả nghiêm trọng. Sống trong một môi trường đua chen phức tạp, tiếp xúc với đồng tiền, với cơ chế thị trường quá sớm khiến nhận thức, nhân cách, tâm hồn của các em phát triển một cách lệch lạc, không tự nhiên và thiếu lành mạnh. Thật khó mà dám khẳng định là tất cả những đứa trẻ đó sẽ có một tương lai bình thường và và tốt đẹp. Bị ép phải già trước tuổi, phải từ giã tuổi thơ khi còn quá nhỏ, phải sống trong cô đơn ghẻ lạnh, không có một bàn tay vỗ về chăm sóc, không có người chỉ đường dẫn lối… ai dám đảm bảo rằng, tất cả những em nhỏ đó sẽ đều trở thành những công dân lương thiện và có ích. Thực tế cho thấy nhiều đứa trẻ trong số đó đã trở thành tội phạm trước khi trở thành một công dân. Chúng móc túi, cướp giật, trộm cắp, lừa đảo, sa vào các tệ nạn xã hội và trở thành gánh nặng của cộng đồng. Đa phần các em nhỏ khi mới rời nhà đi đều là những đứa trẻ hiền lành, ngây thơ, chỉ sau một thời gian đã trở thành những đứa trẻ hoàn toàn khác. Lối sống nơi đô thị đã làm mất đi ở các em bản tính trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Đó là những di chứng tinh thần rất có hại cho các em khi đến tuổi trưởng thành.
Như vậy, tình trạng trẻ em rời nhà đến kiếm sống ở các thành phố sẽ tạo nên những hậu quả khôn lường đối với chính những đứa trẻ và với toàn xã hội. Cần phải làm gì để xoá bỏ tình trạng này để trẻ em tất cả mọi vùng miền đều được hưởng những quyền chính đáng mà các em có. Đây là trách nhiệm không của riêng ai. Sự quan tâm là điều đầu tiên cần phải có. Và trước hết phải là từ gia đình, cha mẹ và những người thân của các em. Tạo dựng cho các em một mái ấm bình yên, cho các em một môi trường trong lành để các em được lớn lên, được trưởng thành một cách tự nhiên, lành mạnh là điều các bậc làm cha, làm mẹ phải làm. Mỗi địa phương cũng cần có những biện pháp cụ thể để giúp những em nhỏ có hoàn cảnh đặc biệt giải quyết những khó khăn vướng mắc. Ví như giúp các em có việc làm ngay trên quê hương mình, hỗ trợ để các em có đủ điều kiện đến trường và rộng hơn là cả xã hội. Dành cho các em một cái nhìn độ lượng, nhân ái, một cử chỉ quan tâm dù là rất nhỏ bé, là mỗi người đã và đang góp phần đem đến cho mỗi số phận tội nghiệp đó những giá trị rất lớn lao.
Nhà nước đã có nhiều hành động cụ thể để giải quyết vấn đề này. Như giao cho các tỉnh, các địa phương đưa các em trở về, tạo công ăn việc làm, giúp các em ổn định cuộc sống tại quê nhà, được học tập, vui chơi như mọi đứa trẻ khác. Việc làm này bước đầu đã tạo nên những biến đổi rất tích cực, rất nhiều bạn nhỏ đã yên tâm trở về, lao động và sinh hoạt trên quê hương mình, tìm thấy niềm vui mới. Sự quan tâm của Nhà nước là rất kịp thời và thiết thực. Tuy nhiên, để chấm dứt hẳn tình trạng này thì cần có thời gian và sự quan tâm hơn nữa của tất cả mọi người trong cộng đồng.
Một xã hội không thể coi là văn minh, là công bằng và tiến bộ khi mà ở đâu đó vẫn có nhiều đứa trẻ bị đẩy ra đường kiếm tiền thay cho việc đến trường đi học. Cho các em một quá khứ êm đềm, một hiện tại bình yên hạnh phúc và một tương lai được đảm bảo, đó cũng là cách để tạo dựng một thế giới tốt đẹp cho tất cả mọi người.
3.Khủng bố đang diễn ra hàng ngày tại một số nước và có nguy cơ bùng nổ trên toàn thế giới. Những suy nghĩ của em về vấn đề này ?
Khát vọng lớn nhất của nhân loại từ thuở xa xưa đến giờ vẫn là khát vọng về một nền hoà bình thực sự và vĩnh cửu. Thế nhưng trong lịch sử, nhân loại cũng đã bao lần phải chứng kiến cảnh bầu trời xanh của trái đất trong vẩn đục bởi khói lửa chiến tranh. Hiện nay, nạn khủng bố ở rất nhiều quốc gia trên thế giới đang phá vỡ bầu không khí hoà bình của tất cả mọi người.
Từ “khủng bố” đã trở thành một từ rất quen thuộc đối với con người hôm nay. Gắn liền với nó là cảnh đổ máu tang thương, là người chết, là đổ nát tan hoang, là nỗi kinh hoàng ám ảnh bao người sống sót.
Các phương tiện thông tin ngày nào cũng sẵn những tin về những thảm cảnh như vậy. Tai hoạ khủng bố có thể đến với bất kì ai, ở bất cứ nơi nào : trong nhà hàng, siêu thị, trường học, nhà trẻ, công viên, bến xe, máy bay… Cách thức khủng bố cũng rất đa dạng : gài bom, tấn công trực tiếp, bắt cóc con tin, đặc biệt nguy hại là bọn khủng bố có thể sử dụng cả vũ khí sinh học, hoá học để reo giắc thảm hoạ cho con người. Khủng bố ngày càng trở nên nghiêm trọng, bởi qui mô và mức độ tàn phá của nó. Thế giới hẳn sẽ không bao giờ quên được ngày 11 tháng 9, ngày mà toà tháp đôi chọc trời, biểu tượng cho sức mạnh và nền kinh tế Mĩ đổ sụp xuống trong tiếng la hét kinh hoàng của hàng ngàn ngườ